Thứ sáu, 19/04/2024
 NămSố
 Từ khóa
 Tác giả
Tìm thông tin khác
Một số đặc điểm dịch tễ học đại dịch COVID-19 và đáp ứng của hệ thống giám sát tại Quảng Ninh năm 2021
Năng lực sức khỏe của sinh viên Khoa Y, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian đại dịch COVID-19, 2021 - 2022
Thực trạng biếng ăn và yếu tố liên quan ở trẻ 24 - 71,9 tháng tuổi tại một số trường mầm non của huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, năm 2022
Trang: 140
Tập XXV, số 10 (170) 2015 Số đặc biệt

Hiện nhiễm HIV, hành vi nguy cơ và tiếp cận chương trình ở các quần thể nguy cơ tại khu vực phía Nam, 2010-2014

HIV prevalence, risk behaviors and accessing to HIV programs among key-affected population in SouthernVietnam, 2010-2014
Tác giả: Phạm Duy Quang , Nguyễn Duy Phúc, Khưu Văn Nghĩa, Trần Phúc Hậu, Phạm Thị Minh Hằng, Phan Trọng Lân, Nguyễn Vũ Thượng
Tóm tắt:
Nhằm mô tả chiều hướng tỷ lệ lưu hành HIV, hành vi nguy cơ và mức độ tiếp cận chương trình phòng chống HIV ở nam tiêm chích ma túy (TCMT), phụ nữ mại dâm (PNMD) và nam quan hệ đồng giới (MSM) các tác giả tiến hành phân tích dữ liệu giám sát trọng điểm HIV, lồng ghép hành vi tại 9 tỉnh phía Nam năm 2010-2014. Kiểm định Cochran–Armitage được sử dụng để đánh giá xu hướng nhiễm HIV, hành vi và tiếp cận chương trình. Kết quả cho thấy hành vi an toàn hơn được ghi nhận ở nam TCMT và PNMD, nhưng không gặp ở nhóm MSM. Trong khoảng thời gian này, tỷ lệ lưu hành HIV ở mức thấp trên nhóm PNMD (2–4%), giảm rõ ở nam TCMT (từ 23% xuống 12%) và dao động ở mức 2–10% ở nhóm MSM. Năm 2014, tỷ lệ tiếp cận các can thiệp giảm tác hại giảm chỉ bằng phân nửa năm 2010. Trong khi tỷ lệ xét nghiệm HIV ở MSM có xu hướng tăng, tỷ lệ này lại giảm nhẹ ở cả nam TCMT và PNMD. Chỉ 6–19% các quần thể nguy cơ đã bị nhiễm HIV tiếp cận điều trị thuốc kháng retrovirus (ARV). Như vậy dịch nhiễm HIV có xu hướng giảm ở nam TCMT, ổn định ở PNMD nhưng có xu hướng gia tăng ở quần thể MSM. Mức độ tiếp cận các chương trình HIV cần được tăng cường trong thời gian tới tại các tỉnh phía Nam.
Summary:
To describe trends of HIV prevalence, risk behaviors and accessing to HIV programs among males who inject drugs (MWID), female sex workers (FSWs) and men who have sex with men a cross-sectional survey was conducted to analyze data of the annual HIV sentinel surveillance in nine southern provinces from 2010 through 2014. We used Cochran–Armitage test for trend to assess trends of HIV prevalence, risk behaviors, access to HIV programs over time. The results showed that during 2010-2014, except MSM group, safer behaviors were documented among both MWID and FSWs. During that time, HIV prevalence was relatively low among FSWs (2 – 4%), significantly declined among MWID (from 23% to 12%), and was within a range of 2-10% in MSM. In 2014, accessing to harm reduction programs was halved that of 2010. While the proportion of HIV testing significantly increased among MSM, there was a significant decline in HIV testing among both MWID and FSWs. Only 6–19% among key affected populations with HIV infection accessed antiretroviral therapy (ART). That was clearly HIV epidemic is declining among MWID and stabilizes among FSWs but is possibly expanding among MSM. Improved access to HIV programs for key affected populations is urgent in southern Vietnam.
Từ khóa:
TCMT, PNMD, MSM, HIV, Giám sát trọng điểm.
Keywords:
MWID, FSWs, MSM, HIV, sentinel surveillance.
File nội dung:
O1510140.pdf
Tải file:
Tải file với tiền ảo trong tài khoản thành viên.
Thông tin trong cùng số xuất bản:
THƯ CHÚC MỪNG 98 NĂM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/06/2023). Kính chúc các anh, các chị và các bạn đồng nghiệp thật nhiều sức khỏe, nhiều niềm vui. Hy vọng các đồng chí luôn giữ vững ngòi bút, lập trường và sự khách quan, trung thực của mình để góp phần phát triển nền báo chí nước nhà. GS. TS Đặng Đức Anh (Tổng biên tập Tạp chí Y học dự phòng)
Website www.tapchiyhocduphong.vn được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log