Thứ sáu, 26/04/2024
 NămSố
 Từ khóa
 Tác giả
Tìm thông tin khác
Một số đặc điểm dịch tễ học đại dịch COVID-19 và đáp ứng của hệ thống giám sát tại Quảng Ninh năm 2021
Năng lực sức khỏe của sinh viên Khoa Y, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian đại dịch COVID-19, 2021 - 2022
Thực trạng biếng ăn và yếu tố liên quan ở trẻ 24 - 71,9 tháng tuổi tại một số trường mầm non của huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, năm 2022
Trang: 119
Tập 32, số 5 2022

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NHIỄM ĐỘC DA DO THUỐC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT TIỆP HẢI PHÒNG TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2020

CLINICAL AND SUBCLINICAL CHARACTERISTICS, TREATMENT RESULTS OF CUTANEOUS ADVERSE DRUG REACTIONS AT VIET TIEP HOSPITAL FROM 2015 TO 2020
Tác giả: Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Thanh Thanh Huyền, Phạm Thị Thu Trang, Cao Việt Phương
Tóm tắt:
Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị bệnh nhân nhân nhiễm độc da do thuốc tại khoa Da liễu Bệnh viện Việt Tiệp, từ 2015 đến 2020. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 246 bệnh nhân nhiễm độc da do thuốc điều trị nội trú tại Khoa Da liễu Bệnh viện Việt Tiệp từ 1/2015 đến 12/2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi vào viện 95,5% bệnh nhân có ngứa, 71,5% bệnh nhân có dát đỏ là triệu chứng khởi đầu. 31,1% các trường hợp được chẩn đoán là các thể nặng. 25,7% bệnh nhân vào viện có dấu hiệu sốt, trong đó 13,8% sốt cao ≥ 38,5oC. Có 32,5% có tăng bạch cầu đa nhân trung tính mức độ nhẹ. Chỉ số enzym AST, ALT bình thường ở 85,1% số bệnh nhân. Thời gian điều trị trung bình của tất cả các thể là 7,9 ngày. Thể đỏ da toàn thân có thời gian điều trị dài nhất là 14,5 ngày. 100% bệnh nhân nhiễm độc da do thuốc thể thông thường ổn định và ra viện. 23,1% bệnh nhân hội chứng Lyell có tiến triển nặng phải chuyển viện. Kết luận: Ngứa và dát đỏ là triệu chứng khởi phát thường gặp của nhiễm độc da do thuốc. Các thể nặng chiếm tỷ lệ thấp hơn thể thông thường, nhưng thời gian điều trị dài hơn.
Summary:
The objective of the study was to describe the clinical, subclinical characteristics and treatment results of patients with cutaneous adverse drug reactions (cADRs) at the Dermatology Department of Viet Tiep Hospital, from 2015 to 2020. The study design was a cross-sectional descriptive study in a group of 246 inpatients. The study results showed that 95.5% of patients had itching on admission, and 71.5% of patients had erythema as the initial symptom. 31.1% of cases were diagnosed as severe forms. 25.68% of patients admitted to the hospital showed signs of fever, of which 13.8% had a high fever ≥ 38.50C. There were 32.5% with mild neutrophilic leukocytosis. Enzyme AST, ALT normal in 85.1% of patients. The mean duration of treatment for all subjects was 7.9 days. Erythroderma had the longest treatment time of 14.5 days. 100% of patients with cADR were discharged from the hospital. 23.1% of patients with Lyell’s syndrome had severe progression to hospital. Conclusions: Itching and erythema are common initiating symptoms of cADR. Severe forms account for a lower proportion than normal ones, but the treatment time is longer.
Từ khóa:
Nhiễm độc da do thuốc (CADRs); Hội chứng Lyell; Hội chứng Steven – Jhonson
Keywords:
Cutaneous adverse reactions (CADRs); Lyell; Steven – Jhonson
DOI: https://doi.org/10.51403/0868-2836/2022/756
File nội dung:
o2205119.pdf
Tải file:
Tải file với tiền ảo trong tài khoản thành viên.
Thông tin trong cùng số xuất bản:
THƯ CHÚC MỪNG 98 NĂM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/06/2023). Kính chúc các anh, các chị và các bạn đồng nghiệp thật nhiều sức khỏe, nhiều niềm vui. Hy vọng các đồng chí luôn giữ vững ngòi bút, lập trường và sự khách quan, trung thực của mình để góp phần phát triển nền báo chí nước nhà. GS. TS Đặng Đức Anh (Tổng biên tập Tạp chí Y học dự phòng)
Website www.tapchiyhocduphong.vn được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log