Thứ bảy, 27/04/2024
 NămSố
 Từ khóa
 Tác giả
Tìm thông tin khác
Một số đặc điểm dịch tễ học đại dịch COVID-19 và đáp ứng của hệ thống giám sát tại Quảng Ninh năm 2021
Năng lực sức khỏe của sinh viên Khoa Y, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian đại dịch COVID-19, 2021 - 2022
Thực trạng biếng ăn và yếu tố liên quan ở trẻ 24 - 71,9 tháng tuổi tại một số trường mầm non của huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, năm 2022
Trang: 344
Tập XXV, số 6 (166) 2015 Số đặc biệt

Mối liên quan giữa bệnh lỵ và yếu tố thời tiết khí hậu: Hồi cứu số liệu từ 2002-2011

The association between dysentery and weather factors: A retrospective study from 2002 to 2011
Tác giả: Trần Quỳnh Anh, Lê Thị Thanh Xuân, Hoàng Thị Thu Hà, Hoàng Thị Vân Anh, Lê Thị Tài
Tóm tắt:
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu tình hình mắc bệnh lỵ amíp và lỵ trực trùng ở tám tỉnh đại diện cho các vùng sinh thái của nước ta và mối tương quan giữa một số yếu tố khí hậu thời tiết và số ca mắc lỵ ở các địa phương này, đó là Thái Nguyên, Hà Nam, Yên Bái, Quảng Bình, Bình Thuận, Gia Lai, Cần thơ và Bình Dương. Số liệu về bệnh lỵ amíp, lỵ trực trùng và số liệu về thời tiết khí hậu như nhiệt độ trung bình, lượng mưa, độ ẩm, tốc độ gió, số giờ nắng trong 10 năm từ 2002-2011 đã được thu thập và phân tích. Số ca mắc bệnh lỵ, tỷ suất mắc/100000 dân, hệ số tự tương quan giữa các ca mắc theo khoảng trễ thời gian, hệ số tương quan Spearman‘ r giữa số ca nghi mắc và yếu tố thời tiết khí hậu đã được tính toán. Kết quả: Trong 10 năm từ 2002-2011 số ca mắc và tỷ suất mắc lỵ amíp và lỵ trực trùng cao nhất ở tỉnh Gia Lai (82,6 ca/100.000 dân/năm và 162,2 ca/100.000 dân/năm); số ca mắc và tỷ suất mắc lỵ amíp thấp nhất ở Cần Thơ (1 ca/100.000 dân/năm); tỷ suất mắc lỵ trực trùng thấp nhất ở Thái Nguyên (0,9 ca/100.000 dân/ năm). Có sự tự tương quan có ý nghĩa thống kê giữa số ca mắc lỵ amíp theo khoảng trễ thời gian 1 tháng đầu tiên ở 5/8 tỉnh, và tự tương quan có ý nghĩa thống kê giữa số ca mắc lỵ trực trùng theo khoảng trễ thời gian ở tất cả tám tỉnh, trong đó tương quan mạnh nhất ở khoảng trễ 1 tháng đầu tiên. Trong năm yếu tố thời tiết, có 6/8 tỉnh trong nghiên cứu có ít nhất một yếu tố thời tiết liên quan đến số ca mắc lỵ amíp/lỵ trực trùng trong giai đoạn từ 2002-2011 với p<0,05. Tuy nhiên, các hệ số tương quan thể hiện mối liên quan giữa yếu tố thời tiết và số ca mắc lỵ là thấp (<0,40) và vì vậy mối liên quan giữa yếu tố thời tiết và bệnh lỵ trong 10 năm nghiên cứu là mối tương quan yếu.
Summary:
This study was conducted to examine the mor-bidity of dysentery including amoeba dysentery and bacillary dysentary in the eight representa-tive provinces of ecological regions of Vietnam and the correlation between numbers of cases of dysentery and weather factors in these prov-inces, including Thai Nguyen, Yen bai, Quang binh, Binh thuan, Gia lai, Can tho and Binh du-ong. Data of dysentary cases and weather factors of average temperature, rainfall, humidity, wind speed and sunny hours during ten years of 2002-2011 were collected and analysed. Numbers of rabies cases, morbidity/100000 people/year, au-tocorrelation of numbers of cases by lag time and correlation coefficient Spearman‘ r of numbers of rabies cases and weather factors were calcu-lated. Results: During ten years of 2002-2011, the highest numbers of amoeba and bacillary dys-entary cases and morbidity were observed in Gia Lai (82,6 cases/100.000 people/year and162,2 cases/100.000 people/year), the lowest number of amoeba dysentery morbidity was observed in Can Tho (1 case/100.000 people/year)and the lowest number of bacillary dysentery morbidity was found in Thai Nguyen (0.9 case/100.000 peo-ple/year). There have been statistical significant autocorrelations between amoeba dysentery cases by lag time of first month in 5/8 provinces, and statistical significant autocorrelations between bac-illary dysentery cases by lag time in all eight study sites. Among five weather factors, there have been at least one weather factor correlated significantly with numbers of rabies cases in the period of 2002-2011 (p<0.05) at 6/8 study sites. However, the correlation coefficient of the relationship between weather factors and numbers of dysentary cases was low (r<0.40). Therefore, the correlation be-tween weather factors and numbers of dysentary cases in ten years was weak.
Từ khóa:
bệnh lỵ, lỵ amíp, lỵ trực trùng, thời tiết, vùng sinh thái
Keywords:
dysentary, amoeba dysentery, bacillary dysentery, weather, ecological regions
File nội dung:
O156344.pdf
Tải file:
Tải file với tiền ảo trong tài khoản thành viên.
Thông tin trong cùng số xuất bản:
THƯ CHÚC MỪNG 98 NĂM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/06/2023). Kính chúc các anh, các chị và các bạn đồng nghiệp thật nhiều sức khỏe, nhiều niềm vui. Hy vọng các đồng chí luôn giữ vững ngòi bút, lập trường và sự khách quan, trung thực của mình để góp phần phát triển nền báo chí nước nhà. GS. TS Đặng Đức Anh (Tổng biên tập Tạp chí Y học dự phòng)
Website www.tapchiyhocduphong.vn được phát triển bởi đơn vị thiết kế web: MIP™ (www.mip.vn - mCMS).
log